Tôi đến Nha Trang lần đầu tiên vào
Giáng sinh 1968 khi từ Đà Lạt chạy Honda xuống với đứa em họ, đi công việc và
chỉ ở lại một đêm rồi quay về nhưng thành phố này đã tồn tại trong tôi từ năm
lên sáu qua những chuyện kể, những tấm hình anh Hai tôi làm việc ở đây giữa
thập niên 50 của thế kỷ trước đem về.
Nhà ga, chùa Hải Đức, nhà thờ Đá,
cầu Xóm Bóng… in đậm trong tâm trí tôi từ những tháng ngày xa xưa ấy với những
tự hào trẻ con, làm gì mà lũ bạn cùng xóm hay cùng lớp nghe nói đến những
nơi này? Tôi nhớ những tối mùa hè sáng trăng, đem chiếc chõng tre ra
trước sân nhà ngồi hóng mát, mẹ tôi vẫn thường đọc “Trăng rằm mười sáu trăng treo/ Anh
đóng giường lèo cưới vợ Nha Trang”, mỗi
lần nghe thế, tôi nghĩ đến anh Hai và mong mau đến ngày anh về.
Ra trường, vào Cam Ranh dạy học
tôi đi máy bay, khoảng 4g chiều thì máy bay lượn vài vòng, hạ độ cao để xuống
phi trường Nha Trang. Ra khỏi đồng rưộng phía Nam, từ trên máy bay nhìn xuống
là biển xanh ngan ngát, những con sóng ngoài khơi lăn tăn và xa xa là vài chiếc
thuyền đánh cá, biển và bờ biển trong nắng nhạt buổi chiều đẹp như vẽ, là nhiều
căn nhà màu trắng của thành phố và hình ảnh đó đọng lại trong tôi mãi đến bây
giờ khi tôi gắn bó với nơi này đã bốn mươi năm.
Cam Ranh cách Nha Trang 60 cây số,
hồi ấy chỉ đi xe đò, tôi lại không có người thân ở đó nên thời gian đầu thấy xa
lạ dầu rằng ngay từ 1968, khi chạy xe về lại Đà Lạt, trên đường Nha
Trang-Thành, nhìn khung cảnh hiền hòa hai bên đường, tôi đã mơ sẽ được định cư
lâu dài ở xứ này. Cuối tuần, những đồng nghiệp có nhà ở đây về nhà, người khác
có bạn bè, người thân thì ra chơi, nghỉ cuối tuần, khi vào lại kháo nhau nào là
đi uống bia dưới Duy Tân, nào là coi phim “Meurtre au soleil” ở Nha
Trang Ciné đường Hoàng tử Cảnh mà mình chưa có cách nào vì vài tháng đầu tôi
chưa có bạn để đi cùng.
Nhưng rồi, “Que sera, sera!”, dạy
ở Cam Ranh đúng 4 tháng thì quân giải phóng đánh BMT rồi miền Nam mất, di tản,
quay về, xin dạy lại, làm quen với nền giáo dục mới…và trong bối cảnh đó, tôi
có KN, một “đàn chị” sinh trước tôi vài tháng, ra trường trước tôi hai năm
nhưng cùng lứa “tú tài Mậu thân” và cùng học ở Huế với nhau.
1. KN có một người cô ruột (em bố)
làm việc ở bệnh viện tỉnh có chồng là đại úy pháo binh VNCH, nhà ở đường Phương
Sài, khi chúng tôi có nhau, nàng đưa tôi về giới thiệu rồi từ đó, thỉnh thoảng
chúng tôi ra nhà hoặc mỗi dịp hè về sở giáo dục học chính trị - nghiệp vụ tôi
đều ghé nhà Phương Sài, nhà của O trở thành địa chỉ đầu tiên gắn bó với tôi với
khá nhiều kỷ niệm vui buồn nhất là khi tôi thành cháu rễ của O, Chú đầu năm
1978.
Tháng 10 năm đó, khi chúng tôi
chuyển lên dạy ở trường miền núi Phú Yên thì nhà O trở thành chốn đợi về, chốn
nương thân của chúng tôi khi về thành phố, nơi chú cháu ngồi khề khà tâm tình,
đàm đạo chuyện thời thế bên ly rượu thuốc, nơi O tôi, bằng đồng lương ít ỏi của
mình vẫn sắm chút gì cho anh
chị ăn chứ ở núi mấy tháng rồi! Sau
này khi vợ tôi sinh con gái đầu và khi cu Út bệnh chuyển từ Tuy Hòa về Nha
Trang điều trị dài ngày đều về ở đây và có sự giúp đỡ của O Chú và các em..
Khi chúng tôi về hẵn Diên Khánh,
nhà O vẫn là nơi chúng tôi tá túc trước khi có chổ ở ở trường, vẫn thường xuyên
lên xuống nhưng khi chúng tôi ổn định ở nhà riêng của mình không lâu thì tôi đi
làm xa, vợ tôi cũng bận rộn, xuống Nha Trang thì dành thì giờ ghé ông bà ngoại
các cháu từ Huế vào sống sau này, chúng tôi ít ghé thăm, mỗi năm chỉ ghé vào
mùng một Tết và ngày giổ bà nội nhưng từ sâu thẳm lòng mình vẫn luôn nhớ ơn O
Chú.
2. Khi chúng tôi chuyển lên miền
núi Phú Yên vào gần cuối thập niên 1970’s, trường mới thành lập, có 3 cô giáo
vừa ra trường khóa 2 CĐSP từ Nha Trang cùng lên. Trong môi trường khó khăn vất
vả ấy, mọi người dựa vào nhau để sống, làm việc và nhóm Nha Trang nhanh chóng
gần gủi nhau, giúp nhau từng việc nhỏ trong khả năng của từng người. Có người
xuống núi là sẵn sàng giúp đỡ những người ở lại, giúp chuyển thư tới tận nhà
cho từng người, khi lên lại đem thư và quà lên giúp. Và tôi biết đến địa chỉ
thứ 2, đường Lạc Long Quân trong trường hợp này.
Ông bà ngoại Sơn. chủ nhà, như
cách gọi thân mật của chúng tôi sau này, người gốc Huế, sống Nha Trang từ
lâu lắm, có 10 người con, chị đầu lấy chồng ở gần, Mai, cô giáo dạy cùng trường
tôi là con thứ tư và một bầy lít nhít phía sau, hình như chỉ có hai người đầu
nói giọng Huế còn mấy anh chị em sau đều nói giọng Nha Trang.
Khi tôi đến lần đầu chuyển thư
Mai, mọi người nhìn tôi rất lạ, sau này mới biết là vì khuôn mặt tôi “khá
giống” với chàng rễ chồng
Dung, cô gái thứ ba trong nhà, thiếu tá QLVNCH đang cải tạo tận ngoài Trung.
Chiều hôm đó tôi ngồi trước hiên, người anh thứ hai đạp xích lô về, lại cận
thị, nhìn thế nào tưởng tôi là em rễ, định chạy lại ôm mừng! Có thể chuyện này
cộng với cách cư xử thật lòng của tôi, không lâu sau tôi được mọi người đối xử
rất gần gủi thân tình, nhất là ông ngoại và người con trai lớn.
Lên trường gần 3 tháng thì về
Nha Trang ăn Tết rồi giữa tháng giêng năm đó vợ tôi sinh con đầu lòng và
nghỉ hậu sản mấy tháng ở đây, mặc dầu đường sá cách trở, xe cộ khó khăn với
7-10km đi bộ nhưng tôi cũng thường xin về và lần nào cũng ghé Lạc Long Quân
chuyển thư.
Có lần gia đình nhờ tôi giúp dẫn
Dung lên thăm em gái ở trường, vậy là tôi có được một lần đi có bạn đồng hành,
170km mua vé xe đò hai bến và 7 hoặc 10km đi bộ qua các khu canh tác của nông
trường.
Sáng ngày đi, tôi ra bến xe nội
tỉnh xếp hàng mua vé trước cho hai người, đang chờ đến lượt thì nghe có ai vổ
nhẹ vào lưng, giật mình quay lại, Dung đã tới với nụ cười thật tươi, ăn
mặc giản dị nhưng đẹp và sang mà hình ảnh còn lại trong tôi là áo lain cổ tròn
màu Bordeaux chen vài ba hình vuông nhỏ màu đen và xanh đen ở thân trước. Lúc
đó em chỉ vừa 24 tuổi nhưng đã có một con gái lên ba!
Xe chạy tới Vạn Giã thì Dung say
xe, mệt, xây xẩm và buồn nôn. Tôi phải trổ tài thầy thuốc, xoa dầu, bắt gió …
cho em tựa đầu vào vai tôi để nghỉ ngơi. Nhờ đó, em ổn định dần để đến khi
xuống hết đèo thì em bình thường lại, nói cười vui vẻ và không hiểu sao tôi
cũng thấy lòng mình vui khi nghĩ chắc hành khách trên xe nghe cách xưng hô của
chúng tôi và nhìn thấy cách chăm sóc của tôi cho em, chắc chắn sẽ nghĩ đây là
hai vợ chồng!
Ra tới Tuy Hòa thì biết được một
tin vui: xe của trường xuống thị xã công tác, vậy là chúng tôi sẽ bớt được
chín, mười cây số đi bộ và Dung cũng đỡ nhọc nhằn khi mới mệt xong. Chúng tôi
cùng qua ngã ba lên Phú Thứ để ngồi chờ xe trường, rất may, có một mái tranh,
hình như là quán sạp của ai đó đã không còn dùng, anh em tôi vào ngồi để xe về
ngang dễ nhìn thấy.
Gần 2 giờ chờ ở đây, anh em nói
chuyện lan man không đầu đuôi gì, Dung kể tôi nghe chuyện học vài năm luật ở
Sài Gòn, chuyện lấy chồng, chuyện công việc hiện tại rồi bất ngờ nặn mụn trên
mặt cho tôi, tôi nghĩ, vậy là mọi chuyện bắt đầu, chuyện say xe ở Vạn Giả
không chừng cũng “trong kịch bản”. Có điều, Dung trẻ trung, xinh đẹp, cư
xử rất dễ thương cũng dễ làm mình xiêu lòng để rồi…”gone with the wind”!
Hình như có cái bẫy giăng ra và
không ngờ tôi lại ngoan ngoãn chui vào trong đó!
Sau này, lần nào về Nha Trang kể
cả khi chúng tôi đã rời miền núi, cô đồng nghiệp đã chuyển về Nha Trang tôi vẫn
ghé thăm ông bà, thăm cả nhà, thăm mẹ con Dung, em vẫn nhận hàng HTX về nhà làm
nên rãnh rỗi, buổi tối chúng tôi lấy xe đạp ra biển, đi uống nước rồi chạy vòng
vòng nhiều nơi, nói là để sau này có chuyện mà nhớ nhau, để một trong hai đứa
có dịp đi qua là nhớ đứa còn lại.
Chúng tôi về Diên Khánh ít lâu thì
chồng em xong cải tạo về nhà, vài tuần sau, nhân sinh nhật con gái, họ mời vợ
chồng tôi dự, khách mời và gia đình hơn 20 người ngồi trên một dãy bàn dài, vô
tình tôi, vợ tôi, chồng Dung cùng ngồi một bên nhưng cách nhau, em đến sau tôi
sau khi đã bấm trước với thợ chụp hình, tựa cằm vào vai tôi để thợ bấm máy. Em
nói với tôi, đến lúc phải kết thúc mọi chuyện và tôi cũng thấy đó là điều cần
thiết, rồi sau đó, chúng tôi đối với nhau như anh em, cho đến ngày gia đình em
xuất cảnh, khi tôi biết thì em đã định cư rồi ở Mỹ rồi!.
Nếu có ai nghĩ đây là một chuyện
tình thì tôi nói rằng, với tôi, đây là chuyện tình nhỏ có happy end!
Hoàng Dung ơi, hơn ba mươi năm
qua, mỗi lần nghĩ đến em, nghĩ về quan hệ của bọn mình anh vẫn thầm cám ơn,
trân trọng những tình cảm em dành cho anh và nhất là cách xử sự đầy hiểu biết
của em nhưng vẫn thấy, ở khía cạnh nhân bản của mối quan hệ này, anh có lỗi với
em. Rồi nghĩ lại, anh lại tha thứ cho mình vì lỗi do anh không cố ý và không
hiểu biết để hành xử đúng trong tình huống này!
Hình chụp chung với em anh
không có tấm nào nhưng chắc rằng chúng ta rất giống với người Việt khi vừa vượt
biển đến Palawan phải không em?
Lần ghé gần đây nhất của anh là
tháng 9 năm ngoái, lúc nghe tin ông ngoại bệnh nặng nhưng đến nơi thì rất mừng,
ông khỏe, nói chuyện vui vẻ, tỉnh táo…chỉ đáng tiếc là sau bao năm, vật đổi sao
dời, anh không còn nhìn thấy được một chút dấu vết, một chút hình ảnh ngôi nhà
ngày xưa đã xa lắm rồi, để mường tượng hình ảnh em ở đâu đó trong nhà chạy ra,
cười bằng mắt và hỏi: “Anh về khi nào, có khỏe không, bao giờ đi lại…?”.